Phong cách Thư pháp Hồi giáo

Kufic

Một đoạn kinh Qur'an được ghi bằng chữ Kufic vào thế kỉ IX dưới Triều đại Abbasid Bát được trang trí bởi chữ Kufic, thế kỉ X, Bảo tàng Brooklyn

Kufic là dạng chữ Ả Rập cổ nhất. Phong cách Kufic nhấn mạnh các nét viết cứng và góc cạnh, được thể hiện như dạng cải tiến của chữ Nabataean.[10] Chữ Kufic nguyên thuỷ gồm 17 chữ cái và không có dấu phụ gồm các chấm và thanh điệu. Các dấu phụ được đưa thêm vào từ thế kỉ VII để giúp người đọc nhận biết phát âm của Qur'an và các văn bản quan trọng khác, làm cho số chữ cái của tiếng Ả Rập tăng lên 28.[11] Mặc dù còn có tranh cãi trong vài học giả, chữ Kufic được cho là đã phát triển trong khoảng cuối thế kỉ VII tại Kufa, Iraq - từ đó từ Kufic được hình thành.[12] Phong cách này sau đó được phát triển nên vài biến thể; bao gồm dạng hoa, dạng lá, dạng nếp gấp, dạng xoắn, dạng có đường bao và dạng vuông. Do tính chất thẳng và có thứ tự của chữ Kufic, nó thường xuyên được dùng trong đá khắc trang trí hay trên tiền.[13] Kufic là phong cách được đùng để sao chép kinh Qur'an từ thế kỉ VIII đến thế kỉ X và bị loại ra khỏi sự sử dụng thông thường từ thế kỉ XII khi mà phong cách Nashk trở nên hữu dụng hơn.

Nashk

Chữ Muhaqqaq trong một bản kinh Qur'an thế kỉ XIV từ Vương triều Mamluk

Việc sử dụng chữ thảo trong tiếng Ả Rập cùng tồn tại với chữ Kufic, và về phương diện lịch sử chữ thảo thường được sử dụng trong các mục đích không chính thức.[14] Cùng với sự trỗi dậy của Hồi giáo, một loại chữ mới cần được sử dụng để phù hợp với nhịp độ cải đạo, mà một loại chữ thảo rành mạch là Nashk lần đầu tiên ra đời trong thế kỉ X. Nashk có nghĩa là "sao chép", nó trở thành chữ tiêu chuẩn để ghi âm sách và bản viết tay.[15] Loại chữ này là loại phổ biến nhất giữa các phong cách khác, được sử dụng trong Qur'an, văn kiện nhà nước và thư tín cá nhân.[16] Nashk trở thành nền tảng của ngành in ấn Ả Rập.

Sự tiêu chuẩn hoá của phong cách Nashk được đề xuất bởi Ibn Muqla (886 - 940) và sau đó được phát triển bởi Abu Hayan at-Tawhidi (mất năm 1009). Ibn Muqla được đề cao trong giới thư pháp Hồi giáo như là nhà sáng chế ra phong cách Nashk, tuy điều này có vẻ như là không đúng. Từ khi Ibn Muqla viết chữ tròn rõ ràng, nhiều học giả từ bỏ kết luận rằng ông đã phát minh loại chữ này.Ibn al-Bawwab, học trò của Ibn Muqla, được tin thực sự là người tạo nên chữ Nashk.[15] Dù sao, Ibn Muqla đã thiết lập hệ thống quy tắc và tỉ lệ để viết nên hình dạng của chữ cái, trong đó dùng chữ alif như chiều cao - x.[17]

Các biến thể của phong cách Nashk bao gồm:

  1. Thuluth được phát triển trong thế kỉ X và sau đó được làm tinh tế hơn bởi Ahmad Tayyib Shah. Chữ viết trong phong cách này có đường thẳng đứng dài và khoảng cách rộng.
  2. Reqa là loại chữ phát triển từ Nashk và Thuluth, lần đầu xuất hiện vào thế kỉ X. Hình dạng của chữ đơn giản với các nét ngắn và nét hoa mỹ nhỏ.[18]
  3. Muhaqqaq là phong cách uy nghi được sử dụng bởi các nhà thư pháp tài hoa. Nó được coi như một trong các loại chữ đẹp nhất và cũng là loại chữ khó thể hiện nhất.

Các phong cách địa phương

Bài thơ Ba Tư viết bằng phong cách Nasta'liq, của nhà thư pháp Mir Emad Hassani, có thể là nhà thư pháp trứ danh nhất Ba Tư

Cùng với sự bành trướng của đạo Hồi, chữ Ả Rập được thiết lập trên một vùng đất đai rộng lớn và nhiều khu vực phát triển phong cách thư pháp độc đáo riêng. Từ thế kỉ XIV trở đi, các phong cách chữ thảo khác được hình thành ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ba TưTrung Hoa[16].

  1. Maghrebi phát triển từ chữ Kufic ở Maghreb (Bắc Phi) và al-Andalus (Iberia), chữ Maghrebi theo truyền thống được viết bằng bút có điểm chấm nhọn(القلم المذبب), từ đó tạo ra một đường dày.
  2. Diwani là một loại chữ Ả Rập thảo được hình thành trong thời kì đầu trị vì của Đế quốc Ottoman vào thế kỉ XVI và đầu thế kỉ XVII. Diwani được sáng tạo bởi Housam Roumi, và đạt đỉnh cao của sự phổ biến trong thời Sultan Suleiman I (1520 - 1566).[19] Khoảng cách giữa các chữ cái thường hẹp, và đường tiến ngược từ dưới lên trên và từ phải sang trái. Diwani khó để đọc và viết vì sự phong cách hoá mạnh của nó, nó trở thành phương tiện viết văn bản cung đình lí tưởng vì tính đảm bảo sự bí mật và ngăn ngừa sự giả mạo.
  3. Nasta'liq là loại chữ ban đầu được dùng để viết tiếng Ba Tư trong các văn bản văn học và phi Qur'an.[20] Nasta'liq được coi như phiên bản phát triển muộn của Nashk và phiên bản dùng ở Iran trước đó, ta'liq.[21] Từ ta'liq nghĩa là "treo", liên quan đến độ hơi dốc của dòng chữ trong phong cách này. Chữ cái có nét thẳng đứng ngắn, và nét rộng và quét ngang. Hình dạng chữ sâu, giống hình lưỡi câu và có độ tương phản lớn.[20]
  4. Sini là phong cách được hình thành ở Trung Quốc. Phong cách này chịu ảnh hưởng rất lớn từ Thư pháp Trung Hoa, trong đó nhà thư pháp dùng bút lông ngựa thay cho qalam. Một nhà thư pháp nổi tiếng của phong cách Sini là Hajji Noor Deen Mi Guangjiang.

Phong cách hiện đại

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thư pháp Hồi giáo http://www.britannica.com/EBchecked/topic/166798/d... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/581497/t... http://calligraphyqalam.com/index.html http://calligraphyqalam.com/styles/index.html http://calligraphyqalam.com/styles/tawqi-riqa.html http://ilovetypography.com/2008/07/10/arabic-calli... http://www.sakkal.com/ArtArabicCalligraphy.html http://international.loc.gov/intldl/apochtml/apocf... http://www.islamicmanuscripts.info/reference/books... http://universityoftexasbrownsville.worldcat.org/t...